Người chưa thành niên phạm tội và hình phạt áp dụng

Đăng lúc: Thứ bảy - 09/11/2013 12:10 - Người đăng bài viết: luatducphuong
Người chưa thành niên phạm tội và hình phạt áp dụng

Người chưa thành niên phạm tội và hình phạt áp dụng

Khoa học luật hình sự đã xác định người chưa thành niên là những người đang trong giai đoạn phát triển cả về tâm, sinh lý, họ có những biểu hiện đột biến, muốn thể hiện cá tính. Người chưa thành niên dễ bị a dua theo những thói hư tật xấu của bạn bè xung quanh, muốn tự do khỏi sự kìm kẹp, gò ép bởi khuôn khổ của gia đình.
Việc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội... Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng và được quy định thành một chương riêng trong Bộ luật hình sự:
 
Bằng khả năng, kinh nghiệm nhiều năm tham gia tranh tụng các vụ án hình sự, DUC PHUONG LAW sẽ đưa ra phương án, giải pháp và thực thi Bào chữa, bảo vệ tốt nhất cho quyền lợi của quý khách hàng là đối tượng chưa thành niên, những người khác trong vụ án có liên quan đến người chưa thành niên. Dưới đây xin nêu cụ thể về căn cứ pháp luật và tình hình áp dụng thực tiễn:
 
 

Hình ảnh tội phạm chưa thành niên

I. Người chưa thành niên phạm tội:

Bộ luật hình sự dành một chương quy định về đối tượng chưa thành niên từ Điều 68 đến Điều 77: Tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự, nguyên tắc xử lý, các biện pháp pháp lý, hình phạt áp dụng, vấn đề xóa án tích đối với người chưa thành niên.

Khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên, Tòa án phải xem xét hành vi phạm tội, hậu quả và các tình tiết liên quan như trong trường hợp người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Nhưng người chưa thành niên được áp dụng một số quy định khác biệt so với các trường hợp khác như sau:

- Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.

- Việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

- Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Toà án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này:

a) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;

b) Đưa vào trường giáo dưỡng.

- Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội.

- Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng.

- Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.

- Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

II. Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên:

Khi thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho quý khách hàng, Luật sư “DUC PHUONG LAW” nghiên cứu tỉ mỉ về nguyên nhân, điều kiện phạm tội, góc độ tâm sinh lý của trẻ em; vận dụng các tình tiết có lợi cho người được bảo vệ, thực hiện các thao tác chuyên môn và đề xuất xử lý sao cho mức án áp dụng được thấp nhất, đồng thời giáo dục, cải tạo cho người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội.
 
Khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Toà án phải áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội quy định từ Điều 68 đến Điều 77 Chương X Bộ luật hình sự.
 
Việc áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên cũng như đối với người đã thành niên, phải đảm bảo các điều kiện mà Điều 47 đã quy định.
 
Khi xác định mức hình phạt tù cụ thể đối với người chưa thành niên phạm tội, Toà án xác định mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội như đối với trường hợp người phạm tội là người đã thành niên, tức là yếu tố “chưa thành niên” của bị cáo tạm thời chưa xem xét đến.
 
Ví dụ 1: Đỗ Văn H 17 tuổi 5 tháng, phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự. H được hưởng 3 tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, p và q khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng. Được Toà án áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, cho H chịu hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Xem xét hành vi phạm tội trên đối với người đã thành niên thì Toà án sẽ phạt 2 năm tù, nhưng H là người chưa thành niên ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nên theo quy định tại Điều 74 Bộ luật hình sự thì mức hình phạt của H chỉ bằng 3/4 mức hình phạt đối với người đã thành niên. Do đó mức hình phạt thực tế mà Toà án áp dụng đối với Đỗ Văn H là 1 năm 6 tháng tù (2x3:4).

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự thì đối với người đã thành niên chỉ có thể xử ở mức thấp nhất là 2 năm tù vì đó là thấp nhất của khung liền kề.

Ngoài ra, căn cứ Điều 74 BLHD thì bị cáo là người chưa thành niên nên mức hình phạt được áp dụng bằng ¾ trường hợp thông thường. Do vậy mức hình phạt như vây là phù hợp, không vi phạm điều 47 BLHS, đảm bảo đúng nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội.
 
Trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội không được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự nhưng Toà án vẫn có thể áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nếu họ có đủ các điều kiện quy định tại Điều 74 Bộ luật hình sự.
 
 Ví dụ 2: Phạm văn B 15 tuổi 5 tháng, phạm tội cướp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù. B chỉ có được hưởng một tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Giả sử Phạm văn B là người đã thành niên thì mức hình phạt mà Toà án quyết định đối với T là 10 năm, nhưng vì B mới 15 tuổi 5 tháng nên theo quy định tại Điều 74 Bộ luật hình sự thì B chỉ bị phạt 5 năm tù (1/2 mức hình phạt mà người đã thành niên phải chịu). Mặc dù B không được áp dụng Điều 47 nhưng không trong trường hợp này Toà án không vi phạm Bộ luật hình sự.
 
Tác giả bài viết: DUC PHUONG LAW
Nguồn tin: HS - CNT
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 10 trong 2 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 
  • Khách hàng 6
  • Khách hàng 5
  • Khách hàng 4
  • Khách hàng 3
  • Khách hàng 2
  • Khách hàng 1

Giới thiệu

GIỚI THIỆU VỀ DUC PHUONG LAW

 DUC PHUONG LAW là trang thông tin hoạt động dịch vụ Luật sư, Công chứng, Đấu giá tài sản và các dịch vụ pháp lý khác, thương hiệu chung của những chuyên gia trong lĩnh vực hoạt động tố tụng, dịch vụ pháp lý. Là trí tuệ chung của các Luật sư, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Điều tra viên,...

Khám phá




Bộ đếm

  • Đang truy cập: 16
  • Hôm nay: 14199
  • Tháng hiện tại: 446242
  • Tổng lượt truy cập: 16196350