Phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao

Đề án phát triển án lệ

Đề án phát triển án lệ

Quyết định phê duyệt đề án “Phát triển án lệ của Toà án nhân dân tối cao” số 74/QĐ-TANDTC ngày 31/10/2012 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao
Điều 1. Phê duyệt Đề án “Phát triển án lệ của Toà án nhân dân tối cao” với các nội dung sau:

I. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, định hướng

1. Mục tiêu

Thực hiện các chủ trương, quan điểm về cải cách tư pháp trong các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước.

- Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” xác định: “Khi xét xử, các tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa…”,“Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh…”, “Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ các cơ quan tư pháp; hàng năm nhận xét, đánh giá về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, năng lực của cán bộ có chức danh tư pháp để xem xét việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phân công nhiệm vụ hoặc miễn nhiệm…”, “Đảng đoàn Quốc hội chủ trì cùng Ban cán sự đảng Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Ban Nội chính trung ương rà soát, nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung và từng bước hoàn thiện pháp luật liên quan đến công tác tư pháp”…

- Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị “về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, xác định “Thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp…”, “Xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan, chức danh tư pháp”, “Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ…”, “Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo việc xây dựng chương trình xây dựng pháp luật dài hạn và hàng năm, trong đó ưu tiên, trọng điểm trên mỗi lĩnh vực xây dựng pháp luật trong từng giai đoạn; giám sát chặt chẽ để đảm bảo tiến độ và chất lượng xây dựng pháp luật”.

- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” xác định: “Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”, “Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc thể chế hóa các chủ trương, định hướng, nội dung, nhiệm vụ cải cách tư pháp”.

- Những nhiệm vụ cải cách tư pháp do Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương giao cho Tòa án nhân dân tối cao thực hiện.

Trên cơ sở đó, việc phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao nhằm những mục tiêu:

a) Mục tiêu tổng quát:

Việc phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao nhằm nâng cao chất lượng của bản án, quyết định của ngành Tòa án nói chung, đặc biệt là Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao; góp phần đảm bảo việc áp dụng pháp luật đúng, thống nhất, từ đó đảm bảo sự bình đẳng của mọi tổ chức và công dân trước pháp luật.

b) Mục tiêu cụ thể:

Việc phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao giúp ngăn ngừa sự duy ý chí của Thẩm phán khi áp dụng pháp luật, nâng cao kỹ năng và chất lượng xét xử của Thẩm phán. Thông qua việc tham khảo, viện dẫn án lệ đã có, Thẩm phán có thể đưa ra phán quyết một cách có cơ sở hơn, đảm bảo số lượng bản án, quyết định bị Tòa án cấp trên hủy, sửa sẽ giảm đi.

Quyết định giám đốc thẩm trở thành án lệ sẽ là khuôn mẫu cụ thể, rõ ràng để dễ nhận biết vấn đề pháp lý được đặt ra của vụ án. Phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao giúp chuẩn hóa việc viết bản án, quyết định của Tòa án. Viện dẫn án lệ trong xét xử trở thành hoạt động thường xuyên của ngành Tòa án.

2. Quan điểm chỉ đạo

- Án lệ là Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Quyết định giám đốc thẩm của Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua, trở thành án lệ có giá trị tham khảo đối với Thẩm phán khi giải quyết các vụ việc cụ thể.

- Để hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử; Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền ban hành án lệ, có quyền giám sát các Tòa án cấp dưới trong việc tham khảo, viện dẫn án lệ của Tòa án nhân dân tối cao để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật trong xét xử. Nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán trong công tác xét xử tại phiên tòa cũng như tăng cường việc bồi dưỡng, đào tạo các chức danh tư pháp, bảo đảm các yêu cầu của cải cách tư pháp.

- Áp dụng án lệ không cứng nhắc, Tòa án nhân dân tối cao có thể phản ứng linh hoạt khi có những thay đổi và phát triển của xã hội và pháp luật như thay đổi về kinh tế, văn hóa, giáo dục, tư tưởng, khoa học công nghệ, quan hệ quốc tế… dẫn đến thay đổi về pháp luật. Tòa án nhân dân tối cao thay đổi án lệ.

3. Định hướng phát triển án lệ gồm các nội dung như sau:

a) Việc sử dụng án lệ chỉ coi là thứ yếu,

sau văn bản quy phạm pháp luật và không phải là Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, án lệ được ban hành khi chưa có Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thông qua việc xét xử vụ án cụ thể, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lập luận về một vấn đề chưa được hướng dẫn và đưa ra cách giải quyết về vụ án và là nguồn cung cấp để pháp điển hóa thành văn bản hướng dẫn hoặc có thể là nguồn để đề nghị sửa đổi về một quy phạm pháp luật cụ thể có liên quan, có giá trị tham khảo đối với Thẩm phán khi giải quyết các vụ việc cụ thể. Tuy nhiên, khi xét xử, các Tòa án được khuyến khích viện dẫn án lệ của Tòa án nhân dân tối cao. Việc viện dẫn án lệ vào một quyết định của Tòa án không có nghĩa án lệ là cơ sở pháp lý cho quyết định của vụ án mà Tòa án xét xử. Cơ sở cho quyết định của Tòa án phải dựa trên cơ cở pháp luật trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Viện dẫn án lệ là cách bày tỏ quan điểm về sự tôn trọng tính thống nhất trong áp dụng pháp luật của Thẩm phán, đảm bảo tính chặt chẽ và tính có căn cứ trong quyết định của mình, Thẩm phán tự mình quyết định có theo đường lối xét xử trong án lệ viện dẫn hay không.

b) Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật:

- Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thực hiện chức năng hướng dẫn áp dụng thống nhất thông qua cách giải thích, lập luận đường lối cách thức áp dụng pháp luật trong những vụ án cụ thể;

- Toà án nhân dân tối cao ban hành các “Tuyển tập án lệ” (các án lệ của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; các Quyết định giám đốc thẩm của Toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua, trở thành án lệ và đưa vào “Tuyển tập án lệ”);

- Toà án nhân dân tối cao giám sát các Tòa án cấp dưới trong áp dụng án lệ để đảm bảo tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Khi xét xử các vụ việc liên quan đến quyết định đã trở thành án lệ, các Thẩm phán phải có trách nhiệm viện dẫn án lệ, áp dụng án lệ đó nếu nhận thấy vụ việc đang xét xử có tính tương tự. Nếu không áp dụng án lệ thì phải chỉ ra lý do trong trường hợp không áp dụng án lệ đó và tự chịu trách nhiệm trong trường hợp không viện dẫn án lệ liên quan đến vụ việc mình đang xét xử, có nghĩa là Thẩm phán phải nêu ra lý do chính đáng trong việc không áp dụng án lệ đã có.

c) Án lệ có thể thay đổi nếu thấy cần thiết.

Bãi bỏ án lệ chính là sự thay đổi mang tính phủ định đường lối xét xử của án lệ cũ trên cơ sở Tòa án thiết lập một án lệ mới. Án lệ bị bãi bỏ trong một số trường hợp sau đây:

- Án lệ bị bãi bỏ khi văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành, thay đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật cũ hoặc quy định những vấn đề pháp lý mà án lệ đề cập đến.

- Án lệ có thể bị bãi bỏ bởi chính Tòa án đã thiết lập ra án lệ, việc bãi bỏ án lệ của Toà án nhân dân tối cao do chính Toà án nhân dân tối cao thực hiện.

d) Quyết định trở thành án lệ:

Là Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Quyết định giám đốc thẩm của Toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua khi hội đủ ba điều kiện sau:

- Là quyết định chứa đựng sự giải thích, lập luận cho một hoặc một số các văn bản quy phạm pháp luật (Văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật) về một vấn đề pháp lý đặt ra chưa được văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật đề cập hoặc đề cập còn chung chung, thiếu tính cụ thể hoặc có mâu thuẫn;

- Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hoặc các Thẩm phán viện dẫn làm căn cứ trong phần lập luận, quyết định của bản án, quyết định về vụ án cụ thể;

- Là Quyết định giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao sau cùng về vấn đề pháp lý đó mà được các Toà án khác vận dụng giải quyết vụ việc có nội dung tương tự.

đ) Án lệ và văn bản quy phạm pháp luật:

- Án lệ bổ trợ cho các văn bản quy phạm pháp luật: các quy phạm pháp luật trong các văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng khi xét xử và án lệ là để định hướng cho Tòa án các cấp áp dụng pháp luật thống nhất, chính xác, giải quyết vụ việc khi không có văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật điều chỉnh;

- Mối quan hệ tương hỗ: án lệ là sự bổ sung cho sự thiếu hụt của các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật khi chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật điều chỉnh. Khi các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề được án lệ giải quyết trước đó thì án lệ không được áp dụng nữa mà Thẩm phán phải áp dụng văn bản quy phạm pháp luật mà cơ sở hình thành từ những cách ứng xử pháp lý của các vụ án cụ thể trước đó.

e) Án lệ và vấn đề giải thích pháp luật:

Việc phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao cũng như việc thừa nhận thẩm quyền ban hành án lệ của Tòa án nhân dân tối cao không xâm phạm đến thẩm quyền giải thích pháp luật của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bởi vì, quyết định của Tòa án nhân dân tối cao trái với giải thích pháp luật của Ủy ban thường vụ Quốc hội (hoặc Hội đồng Hiến pháp) thì không thể trở thành án lệ, không được áp dụng với tư cách là án lệ.

II. Một số giải pháp

1. Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc phát triển án lệ

Trên cơ sở Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Về chiến lược cải cách tư pháp, Toà án nhân dân tối cao kiến nghị Quốc hội:

- Sửa đổi, bổ sung Hiến Pháp Việt Nam năm 1992. Điều 134 của Hiến pháp năm 1992 nên được sửa đổi theo hướng “Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và ban hành án lệ”.

- Sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, cụ thể quy định tại Điều 19 về chức năng “ban hành án lệ” trong nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án nhân dân tối cao và cần bổ sung nguyên tắc này vào trong văn bản pháp luật về tố tụng hình sự, dân sự, hành chính.

- Sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân về quy định Thẩm phán có nghĩa vụ áp dụng án lệ khi xét xử vụ việc trong trường hợp pháp luật quy định không rõ ràng về vấn đề pháp lý đặt ra trong vụ việc đó.

2. Thiết lập án lệ của Tòa án nhân dân tối cao

a) Xác định các Quyết định giám đốc thẩm của Toà án nhân dân tối cao

Là các án lệ của Toà án nhân dân tối cao phát hành “Tuyển tập án lệ” đến Tòa án các cấp:

- Toà án nhân dân tối cao lựa chọn những Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Quyết định giám đốc thẩm của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành có giá trị án lệ trình Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua. Những quyết định được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua là án lệ, được đưa vào Tuyển tập án lệ để phát hành.

- Toà án nhân dân tối cao lập kế hoạch xây dựng các Quyết định giám đốc thẩm sẽ có giá trị án lệ, trước khi xét xử giao cho một bộ phận lựa chọn, đề xuất  những vụ án điển hình có những vấn đề phức tạp cần giải quyết về pháp luật trình Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Khi Quyết định giám đốc thẩm được ban hành về những vụ án đó, đương nhiên quyết định trở thành án lệ và được đưa vào “Tuyển tập án lệ” để phát hành.

b) Công bố các Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao theo hai hình thức:

- Toà án nhân dân tối cao công bố toàn bộ các Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trên mạng internet qua website của Tòa án nhân dân tối cao (http://www.toaan.gov.vn), lập kế hoạch để tiến tới công bố tất cả các bản án, quyết định của Toà án nhân dân tối cao.

- Tòa án nhân dân tối cao thành lập một bộ phận có trách nhiệm chọn lọc, tập hợp các Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao theo từng lĩnh vực pháp luật trình Hội đồng Thẩm phán thông qua và công bố trong những ấn phẩm riêng là “Tuyển tập án lệ” của Toà án nhân dân tối cao.

Tòa án nhân dân tối cao giao cho các toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao chọn lọc những Quyết định giám đốc thẩm chứa đựng đường lối xét xử mới mà chưa được đề cập trong Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét và khi quyết định được ban hành thì được đưa vào “Tuyển tập án lệ”.

3. Cải tiến cách viết và thông qua các bản án, quyết định của Toà án đặc biệt là quyết định giám đốc thẩm của Toà án nhân dân tối cao.

Cải tiến cách viết các bản án, quyết định của Toà án theo hướng làm rõ lập luận của Hội đồng Thẩm phán, từng thành viên Hội đồng Thẩm phán, làm rõ hơn căn cứ để ra quyết định, ngoài các nội dung thể hiện trong phần xét thấy đã được hướng dẫn phải bổ sung việc viện dẫn án lệ liên quan làm căn cứ cho việc đưa ra quyết định của Hội đồng Thẩm phán.

Cải tiến cách viết các quyết định giám đốc thẩm đặc biệt là Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao theo hướng viết chi tiết phần “Xét thấy” phân tích rõ những sai lầm trong áp dụng pháp luật của tòa án cấp dưới. Các vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau thì cần nêu rõ lập luận về ý kiến khác nhau đó và Hội đồng kết luận, lý do đưa ra kết luận. Trong trường hợp có ý kiến bảo lưu cũng cần đề cập đến nhưng nêu rõ ý kiến này không được Hội đồng chấp thuận. Giải thích rõ việc giải quyết vụ án như thế nào là đúng pháp luật để các tòa án cấp dưới biết đường lối xét xử trong phần “quyết định” của mỗi quyết định giám đốc thẩm. Trong những Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải có thêm những phần lập luận và viện dẫn đến các quyết định trước (những án lệ). Điều này đặc biệt quan trọng khi Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thiết lập án lệ mới so với những án lệ đã từng tồn tại trước đây, tránh được việc các vụ án tương tự như nhau có đường lối xét xử khác nhau. Việc viện dẫn tới các quyết định đã xét xử không có nghĩa là Toà án Việt Nam xét xử dựa trên căn cứ án lệ. Án lệ sẽ chỉ đóng vai trò là khuôn mẫu, nguồn bổ trợ làm tăng tính thuyết phục và rõ ràng trong các quyết định của tòa án.

4. Tăng cường việc sử dụng án lệ trong thực tiễn xét xử

a) Công bố các bản án, quyết định của Toà án

Về tất cả các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, hình sự, hành chính:

- Toà án nhân dân tối cao công bố toàn bộ các Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, các Quyết định giám đốc thẩm của các Toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao trên trang thông tin điện tử của Toà án nhân dân tối cao (http://www.toaan.gov.vn/).

- Toà án nhân dân tối cao yêu cầu Tòa án nhân dân các cấp công bố bản án, quyết định của Tòa án mình trên trang thông tin điện tử của Tòa án. Nghiên cứu xây dựng quy chế thống nhất trong ngành Toà án, trong thời hạn nhất định kể từ ngày tuyên án, Thẩm phán chủ toạ phiên toà có trách nhiệm công bố bản án, quyết định trên mạng internet qua website của Toà án.

b) Xây dựng cơ chế viện dẫn án lệ khi xét xử theo các hướng sau:

- Án lệ của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao sẽ có giá trị cao nhất và có tính thuyết phục hơn so với các án lệ của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao. Khi không có án lệ của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì các án lệ của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao và các án lệ trong “Tuyển tập án lệ” phải được viện dẫn.

- Khuyến khích việc viện dẫn án lệ vào bản án, quyết định của Thẩm phán để Thẩm phán bày tỏ lập luận cho quyết định của vụ việc có sự thống nhất trong đường lối xử lý các vụ án.

- Thẩm phán cân nhắc thật kỹ về nội dung của án lệ và lập luận viện dẫn một án lệ cụ thể trong bản án, quyết định của họ. Ví dụ, khi xét xử, Thẩm phán bổ sung vào phần “Xét thấy” một đoạn lập luận: “Căn cứ vào thực tiễn (án lệ) xét xử trước đây cho thấy”: vụ việc này tương tự với vụ việc đã được xét xử bởi Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao,... Phần quyết định của bản án, quyết định viện dẫn điều luật cụ thể, như Điều … Bộ luật…, không viện dẫn án lệ trong phần quyết định của bản án, quyết định.

- Hội đồng xét xử đưa ra quyết định không theo đường lối xét xử đã thiết lập trong án lệ. Đây là trường hợp Hội đồng xét xử đã tạo ra một quyết định mà trong đó nó có thể ảnh hưởng đến việc thiết lập một án lệ mới so với án lệ đã tồn tại trước đó. Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do không vận dụng án lệ và có quan điểm mới.

c) Xây dựng cơ chế giám sát việc viện dẫn, sử dụng án lệ:

- Giám sát trách nhiệm của Thẩm phán trong hệ thống Tòa án đối với việc ra những quyết định cẩu thả mà không cân nhắc đến án lệ của Tòa án tối cao;

- Trong thủ tục tái bổ nhiệm Thẩm phán, phải tính đến tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn của Thẩm phán. Nếu Thẩm phán có nhiều quyết định bị hủy, sửa mà có lỗi là không viện dẫn án lệ liên quan đã được Toà án nhân dân tối cao công bố thì sẽ không được tái bổ nhiệm;

- Bản án, quyết định ở Tòa án cấp dưới có thể không tuân theo án lệ của Toà án nhân dân tối cao, nhưng khi xét xử, Thẩm phán đã tham khảo, viện dẫn án lệ liên quan (nếu có) và đã phân tích, lý giải trong bản án, quyết định lý do vì sao không tuân theo án lệ. Trường hợp không tuân theo án lệ nhưng bản án, quyết định đã xét xử đúng pháp luật, thì lập luận quan điểm ban hành quyết định mới có giá trị nghiên cứu chuyển hóa đưa ra án lệ được thiết lập. Tòa án nhân dân tối cao có chế độ khen thưởng đối với Thẩm phán đưa ra quan điểm mới.

d) Khuyến khích việc phân tích và bình luận các án lệ

- Toà án nhân dân tối cao nghiên cứu và giao cho một đơn vị trực thuộc có trách nhiệm cập nhật án lệ, chủ động tổ chức hoạt động bình luận án lệ bằng việc mời các chuyên gia pháp lý, các Thẩm phán có uy tín, kinh nghiệm hội thảo, phân tích và bình luận các bản án. Tài liệu bình luận cập nhật kèm theo bản án thành ấn phẩm riêng được công bố định kỳ theo từng quý.

- Khuyến khích các tạp chí pháp lý trong nước công bố các quan điểm bình luận án lệ của Tòa án, các Kiểm sát viên, Luật sư, nhà nghiên cứu tự do lựa chọn các quyết định của Tòa án để phân tích bình luận.

đ) Tăng cường tranh tụng tại phiên tòa,

Khuyến khích Kiểm sát viên, Luật sư tranh tụng viện dẫn án lệ đã có, có liên quan đến vụ án đang xét xử.

e) Tổ chức hội thảo về sử dụng án lệ:

Tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi nghiệp vụ về án lệ cụ thể đã được ban hành có sự tham gia của Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư để Kiểm sát viên hay Luật sư có thể chỉ ra sự tồn tại của án lệ; đồng thời, thảo luận tích cực về án lệ kể cả ý kiến đồng thuận và ý kiến không đồng thuận, trên cơ sở đó, các Thẩm phán cân nhắc việc vận dụng án lệ trong vụ án tương tự hay không.

g) Đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ:

- Khuyến khích đưa án lệ vào hoạt động đào tạo luật và đào tạo Thẩm phán tại các cơ sở đào tạo nguồn Thẩm phán;

- Nghiên cứu xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về án lệ cho nguồn bổ nhiệm Thẩm phán, Thẩm tra viên, Chuyên viên, Thư ký; đào tạo nâng cao cho các chức danh trên…

5. Thành lập bộ phận chuyên trách tuyển tập án lệ

Tòa án nhân dân tối cao thành lập “Ban tuyển tập án lệ”.

Nhiệm vụ: Ban tuyển tập án lệ có trách nhiệm chọn lọc, tập hợp các Quyết định giám đốc thẩm của Toà án nhân dân tối cao có giá trị án lệ. Chủ động tổ chức hoạt động bình luận các bản án bằng việc mời các chuyên gia pháp lý, các Thẩm phán có uy tín, kinh nghiệm tham gia phân tích và bình luận các bản án. Bản án và phần bình luận được cho là ngắn gọn và tốt nhất sẽ được trình lên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cân nhắc, quyết định những bản án quyết định nào sẽ được đưa vào tuyển tập và công bố trong những ấn phẩm riêng. Các ấn phẩm công bố các bản án có kèm theo phần bình luận cần được công bố định kỳ theo quý trong một năm.

Điều 2. Trách nhiệm và tiến độ thực hiện

1. Trách nhiệm chỉ đạo, lãnh đạo

Kiến nghị Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao và các bộ, ngành có liên quan nội dung sau:

a) Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao tập trung chỉ đạo các đơn vị trực thuộc Tòa án nhân dân tối cao nghiên cứu, đề xuất những nội dung liên quan đến án lệ trong các dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Tòa án nhân dân; đề xuất đưa vào Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội các dự án luật sửa đổi, bổ sung các luật tố tụng có liên quan để đảm bảo triển khai Đề án đồng bộ.

b) Các Bộ, ngành trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình phối hợp chặt chẽ với Toà án nhân dân tối cao trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện.

2. Trách nhiệm cụ thể

a) Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm tổ chức thực hiện Đề án; định kỳ đánh giá, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện Đề án, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp.

b) Tòa án nhân dân tối cao giao các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc Tòa án nhân dân tối cao và Toà án địa phương thực hiện những yêu cầu cụ thể đã đề ra nêu trên.

3. Tiến độ thực hiện

a) Sau khi Đề án được phê duyệt đến hết năm 2013:

- Khẩn trương kiến nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và các văn bản pháp luật tố tụng có liên quan.

b) Sau khi Quốc hội thông qua các dự án luật có liên quan đến việc ban hành án lệ, xây dựng các Kế hoạch và triển khai thực hiện:

- Thành lập bộ phận chuyên trách tuyển tập án lệ.

- Cải tiến cách viết và thông qua các quyết định giám đốc thẩm.

- Ban hành “Tuyển tập án lệ”, công bố các quyết định gíam đốc thẩm của Toà án nhân dân tối cao về các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, hình sự, hành chính.

- Mở mục Bình luận án trên Tạp chí Toà án nhân dân và khuyến khích các nhà khoa học, Thẩm phán, Luật sư, Kiểm sát viên bình luận và công bố các quan điểm bình luận án.

- Tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về khái niệm án lệ, kỹ năng viện dẫn án lệ, kỹ năng sử dụng án lệ.

- Tổ chức hội thảo về sử dụng án lệ cho Thẩm phán, Luật sư, Kiểm sát viên.

- Kiểm tra thanh tra và xử lý vi phạm trong việc sử dụng án lệ.

- Xây dựng Quy chế thi đua, khen thưởng trong việc áp dụng và sử dụng án lệ.

4. Kinh phí thực hiện

Kinh phí thực hiện Đề án được lấy trong kinh phí hoạt động thường xuyên theo dự toán cho từng năm, đề nghị bổ sung kinh phí theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.

Điều 3. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.

Điều 4. Vụ trưởng Vụ Tổ chức - Cán bộ, Chánh Văn phòng, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch tài chính, Trưởng ban Ban thanh tra, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Viện trưởng Viện khoa học xét xử và thủ trưởng các đơn vị có liên quan của Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

Nguồn: Toà án nhân dân tối cao

-------------------------------------------------------------------------------------------

Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn, giải đáp thắc mắc của bạn.

Trân trọng.

 
 

Nguồn tin: TT