Theo quy định tại Điều 9, Điều 10, Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Điều 9. Điều kiện kết hôn
Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 của Luật này.
Điều 10. Những trường hợp cấm kết hôn
Việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây:
1. Người đang có vợ hoặc có chồng;
2. Người mất năng lực hành vi dân sự;
3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
4. Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
5. Giữa những người cùng giới tính.
Cách thức:
- Nộp hồ sơ trực tiếp tại UBND cấp xã, phường.
- Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải có mặt. Đại diện UBND cấp xã yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký kết hôn và Giấy chứng nhận kết hôn.
- Hai bên nam, nữ ký vào Giấy chứng nhận kết hôn và Sổ đăng ký kết hôn, Chủ tịch UBND cấp xã ký và cấp cho mỗi bên vợ, chồng một bản chính Giấy chứng nhận kết hôn, giải thích cho hai bên về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
*Phần bổ sung theo Luật HNGĐ 2014:
Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về điều kiện kết hôn quy định, nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân thủ các điều kiện:
- Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
- Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
- Hai bên không bị mất năng lực hành vi dân sự;
- Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.
- Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
Như vậy, đến thời điểm này, Luật HNGĐ không cấm việc kết hôn giữa những người cùng giới tính nhưng cũng “không thừa nhận” quan hệ đó là vợ chồng. Pháp luật không cho phép người đồng giới đăng kí kết hôn tại các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và không coi như vợ chồng với các quyền và nghĩa vụ tương ứng. Tuy vậy, người đồng tính có thể tổ chức hôn lễ, chung sống với nhau nhưng trước pháp luật họ không được coi như vợ chồng và không thể đăng kí kết hôn tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú.